Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

Bản tin SHDC số 243

SINH HOẠT DÂN CHÚA Gx TAM KỲ
Số 243      &      ' 0510.3834.492
có thể xem nơi địa chỉ mạng : gxtamky.blogspot.com
lễ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN, 17-5-2015
I- LỜI CHÚA NGÀY CHÚA NHẬT :
Bài đọc 1 :   sách  Công Vụ Tông đồ                  Cv 1,1-11
Đức Giêsu được cất lên trời ngay trước mắt các ông.
Bài đọc 2 : thư gửi tín hữu Êphêxô                             Ep 1,17-23
Thiên Chúa đã đặt Đức Kitô ngự bên hữu Người trên trời.
Tin Mừng theo thánh Mác-cô                                      Mc 16,15-20
Đức Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
II- Ý Lễ : gđ Đệ-Hoa gk 8 : lễ tạ ơn * gđ Năng-Nghiêu LTrà : tạ ơn * gđ Qua-Xuân gk 8 : tạ ơn, cầu bình an * chị Hoa-Lợi gk 9 : lễ bình an * gđ Tân Mến gk 6 : lễ giố bố Vinhsơn /lễ tạ ơn cầu bình an * gđ Thái-Dung gk 5 : lễ tạ ơn và cầu bình an * chị Ly GTrẻ : lễ cho CLH và tạ ơn * bà Cúc Tcai : giỗ 100 ngày chồng Phêrô Hùng * Praeisidium Legio Tam Kỳ : lễ mừng Bổn Mạng 13-5 * 1 người : lễ cho CLH mồ côi * ôb Diêm-Tự gk 1 : lễ tạ ơn, cầu bình an * c. Hậu gk 7 : tạ ơn, cầu cho Lh Maria * gđ Quỳnh-Nguyệt gk 6 : lễ tạ ơn, và cầu bình an * chị Nghĩa-Cao : lễ 100 ngày cho mẹ Maria Xuyến / lễ lữ hành bình an * gđ Tuyến-Hà gk 3 : lễ cho nội Giuse-Maria và CLH * gđ Khoa-Dung gk 8 : lễ 100 ngày cho ba Đaminh Minh *
III- VIỆC PHỤC VỤ NHÀ CHÚA,
từ chiều 23-5 đến 29-5-2015 :  cộng đoàn giáo khóm Trà Cai
THÔNG TIN QUAN TRỌNG
1. Chuẩn bị mừng lễ Bổn Mạng giáo xứ, ngày 31-5 :
Chẳng bao lâu nữa, chúng ta vừa chấm dứt Tháng Hoa với Đại Hội Thánh Mẫu Trà Kiệu ngày 30-5, vừa lo tổ chức Đại Lễ kính mừng Thiên Chúa Ba Ngôi, Bổn Mạng giáo xứ Tam Kỳ. Vậy cộng đoàn giáo xứ sẽ làm gì, tổ chức những gì ?
Thưa, có 2 việc để làm, để chuẩn bị :
* Thứ Nhất về mặt thiêng liêng : chúng ta cùng chọn 3 ngày trước lễ, để dâng lễ, cầu nguyện cho giáo xứ, giáo khóm của chúng ta.  Xin mọi người cùng tham gia. Đó là các ngày
- thứ Năm 28-5 : Kinh nguyện và Thánh Lễ lúc 18g30, với ý cầu nguyện : xin cho giáo xứ được thêm lòng tin kính tuyệt đối vào Thiên Chúa. Sau đó, kinh nguyện tại giáo khóm cũng hiệp thông ý nguyện này, và hát Bài : Mẹ ơi Xứ đạo đoàn con. nguyện dâng….
- thứ Sáu 29-5. lúc 18g30, kinh nguyện và Thánh Lễ với ý cầu nguyện cho người đã được ơn Rửa Tội có lòng thống hối, trở lại cùng Thiên Chúa và Hội Thánh. Kinh nguyện tại giáo khóm cùng hát bài : Mẹ ơi, bao người lạc bước lưu đầy…
- thứ Bảy 30-5 : ngày Đại Hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu. Mọi người đến Trà Kiệu cùng nhau khẩn thiết xin Đức Mẹ chuyển cầu ơn lành cho giáo xứ, cho gia đình, trong đó Ơn Hiệp Nhất, xây dựng Hội Thánh, xây dựng xứ đạo địa phương là rất quan trọng.
Cho đến nay giáo xứ Tam Kỳ chúng ta đã có thể vững mạnh hơn về mặt hình thức, từ cơ sở đến các cộng đoàn, nhưng xem ra chúng ta vẫn còn yếu về nội dung nơi tập thể và cá nhân, cuộc sống đạo chưa đủ xác tín niềm tin, còn nhiều dè dặt, nên e ngại dấn thân. Niềm tin vào Thiên Chúa chưa thật sự là trên hết và trước hết như lời kinh vẫn đọc. Thế nên vẫn còn rời rạc, cần được liên kết với nhau, để cộng đoàn trở nên mạnh sức
* Thứ Hai về mặt hình thức, chúng ta tổ chức duy nhất Một Thánh Lễ trọng trên sân Nhà Thờ để mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi là Bổn Mạng. Sau đó, theo Ban Mục Vụ đề nghị, các giáo khóm dọn bàn ăn cho thực khách là toàn thể giáo xứ. Vậy, mỗi thực khách góp trước 20.000đ cho giáo khóm, để GK sửa soạn bữa ăn. Nhưng tới giờ ăn chung cả xứ, thì ai muốn đi GK nào, muốn chọn món ăn nào ở đâu cũng được (vì đã góp rồi). Cứ thế, mọi người ăn bữa tối chung với nhau, trong tình thân thiện, liên kết với các bạn, các GK anh em, vì cùng chung một xứ đạo. Các anh chị em di dân, tạm trú cũng được mời tham dự, chung niềm vui mà không có phân biệt, vì đúng theo phong cách VN, “chỉ cần thêm chén thêm đũa là xong”. Có phụ diễn ca nhạc tự do, tự diễn.
2- Góp mua đàn orgue :  chị M.Vân CĐ : 800k+ ac Đệ-Hoa gk 8 : 200k+ anh Nam gk 1 : 50k+ ac Anh-Lộc gk 3 : 1000k+ ac Hồng-Hóa gk 9 : 200k+ ac Phước-Phương gk 8 : 100k+ chị Chi gk 8 : 500k+ thầy Đệ gk 7 : 100k+ ob Min-Thanh gk 9 : 200k+ c. Sương gk9 200k+ ôb Diêm-Tự gk 1 : 300k+ ac Thái-Dung gk 5 : 3000k.+ ac Tuyến-Hà gk 3 : 100k+ chị Trinh (Cán) Txuân : 1.000k+ ac Minh-Tín gk 5 : 1.000k+  Đã nhận được : 26.150.000đ. Xin cám ơn quý anh chị em, và xin stop việc ủng hộ quyên góp ở đây.

3- Góp Bác Ái :  ông bà Phát-Hồng gk 7 : 200+ anh chị Vinh-Thủy Txuân : 100* chị Tuyết Sàigòn : 500+ c. Hậu gk 7 : 300+

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2015

bản tin SHDC số 242

SINH HOẠT DÂN CHÚA Gx TAM KỲ
Số 242      &      ' 0510.3834.492
có thể xem nơi địa chỉ mạng : gxtamky.blogspot.com
Chúa Nhật 6 Phục Sinh, 10-5-2015
I- LỜI CHÚA NGÀY CHÚA NHẬT :
Bài đọc 1 :   sách  Công Vụ Tông đồ           Cv 10,25-26.44-48
Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại.
Bài đọc 2 : thư thứ 1 của thánh Gioan              1 Ga 4,7-10
Thiên Chúa là tình yêu
Tin Mừng theo thánh Gioan                               Ga 15,9-17
Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.
II- Ý Lễ : a. Hùng lương : giỗ 49 ngày cho ba Phêrô Châu * a. Dũng-Diệp gk 1 : lễ bổn mạng Philipphê * chị Huyền gk 7 : giỗ 49 ngày mẹ Luxia * 1 người : lễ cho Lh Vinhsơn * chị Tạo Tcai : tạ ơn, cầu bình an * chị Danh Tmi : lễ cho 4 LH mồ côi * gđ Khoa-Tú gk 5 : lễ giỗ nội Gioan và Giuse * gđ Vỹ-Oanh gk 9 : lễ cho cô Anna * bà Sách : lễ tạ ơn, bình an / lễ cho Lh Phêrô * gđ Thanh-Hiền gk 7 : tạ ơn và cầu bình an * ôb Thụy-Khương gk1 : lễ cho CLH, cầu bình an * ô.Hiền Txuân : lễ giáp năm vợ Anê Chung * c.Tạo Tcai : lễ cha mẹ Phaolô-Maria * gđ Thuần-Thao gk 6 : lễ cho ÔBTT * c.Lệ Đtrai : lễ cho ba Phêrô * gđ Nguyên-Xuân gk 8 : lễ bình an và thánh hóa công việc * bà Hường Txuân : lễ giỗ Phêrô Nhơn / lễ cho ÔBTT* chị B.Tuyết gk 6 : giỗ mẹ,em, 2 Lh Maria * c. Vân gk 6 : xin ơn cho gđ * cộng đoàn  GK 8 : bình an giáo khóm.
III- VIỆC PHỤC VỤ NHÀ CHÚA,
từ chiều 16-5 đến 22-5-2015 :  cộng đoàn giáo khóm 9
THÔNG TIN QUAN TRỌNG
1. Kết quả cộng đoàn góp ý :      có đúng 50 bản hồi đáp :
     1- Việc đọc chung Tin Mừng có giúp bạn tiếp cận được với lời Chúa ? Có Lời nào đọng lại trong tâm trí bạn không ?  
43 đáp CÓ – 4 đáp KHÔNG
     2- Bạn biết mở sách Tân Ước, với các số câu chữ ? 
45 đáp CÓ – 2 đáp KHÔNG
     3- Đọc chung làm người không có sách bị khó nghe, không hiểu lời Chúa ?              15 đáp CÓ – 26 đáp KHÔNG
     4- Nhà Thờ thiếu sách cho bạn ? 9 đáp CÓ -  38 đáp KHÔNG
     5- Ngoài giờ lễ, có khi nào bạn mở đọc Kinh Thánh?   
42 đáp CÓ -  4 đáp KHÔNG
     6- Cuối cùng, theo bạn, Nhà Thờ có nên cho đọc chung Tin Mừng trong Thánh Lễ ?  24 đáp CÓ -  26 đáp KHÔNG
Ngoài ra, có 2 thư gửi đến cha Quản Xứ, trình bày ý kiến thật xây dựng. Xin cám ơn thiện chí của những người đã góp ý kiến cho sinh hoạt cộng đoàn trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
Vậy cộng đoàn chúng ta sẽ không đọc chung Tin Mừng với Linh Mục Chủ Tế trong Thánh Lễ nữa, bắt đầu từ Chúa Nhật này, để đúng với phụng vụ của Hội Thánh, như một vài ý kiến nói rõ. Tuy nhiên, vì ích lợi thiêng liêng của việc đọc lên lời Chúa, cũng như thực tế nơi một số tâm hồn luôn khao khát được tiếp cận LỜI, và theo một số ý kiến vẫn tha thiết việc tìm kiếm, mở sách và cùng nhau đọc, thì cộng đoàn chúng ta sẽ đọc chung Tin Mừng trước Thánh Lễ, sau khi dứt lời kinh nguyện chung, và khi đọc Tin Mừng xong, thì cùng hát Ca Nhập Lễ. Việc xướng xuất bài Tin Mừng, sẽ do Giáo Khóm phục vụ cất tiếng lên.
Đây là một bước chuyển biến tốt trong sinh hoạt phụng vụ tại giáo xứ chúng ta, mục đích để tránh sự thụ động như vẫn thường thấy nơi người giáo dân khi đến Nhà Thờ tham dự Thánh Lễ. Màn hình với các bài ca, được mua sắm là để người tín hữu tham dự Thánh Lễ thật sự với cả hồn xác, cùng nhau theo dõi, hát theo lời ca. Việc đối đáp trong Thánh Lễ cũng vậy, để không có cảnh “đi xem lễ” như ngày xưa, nhưng là “đi dâng lễ”, nghĩa là cùng tham dự Thánh Lễ. Tất nhiên không thể tránh được tình trạng thụ động, miễn cưỡng trong số người dự lễ. Họ có thể chỉ hiện diện với phần xác thôi, còn phần hồn thì không, vì còn đang lo toan nhiều chuyện khác. Với họ, có làm gì cũng vậy thôi !
Hơn nữa, lời Chúa vẫn được chúng ta “xin cho con biết lắng nghe”, thì có đọc mới có nghe, LỜI có thốt ra nơi miệng mới đọng lại và nghe được trong lòng. Xin mời cộng đoàn Dân Chúa cùng sốt sắng tham gia và  tham dự Thánh Lễ với nhau.
2- Góp mua đàn orgue :  nhóm bạn trẻ Nghệ An : 1000k+ anh chị Thọ Hùng gk 7 : 100k+ chị Hoa Lợi gk 9 : 2000k+ ac Anh-Lộc gk 3 : 1000k+ chị Hường (Thiết) gk 7 : 1000k+ bà Phi gk 6 : 200k+ a. Dũng-Dung gk 4 : 50k+ ca đoàn Cecilia : 2000k+ a. Thi (Châu) gk 9 : 100k+ chị M.Vân 200k+ 1 bạn trẻ tạm trú : 200k+ chị Huệ (Số) gk 7 : 300k+ ac Vỹ-Oanh gk 9 : 500k+ ac Quỳnh-Nguyệt gk 5 : 200k+ ac Thư-Liên gk 1 : 500k+ bà Sanh Tcai : 100* CĐ Trà Cai : 700k* ac Nguyên-Xuân gk 8 : 100k+ ôb Thu 1500k+ ac Sửu-T.Ba 200k.  Xin cám ơn anh chị em.

Đã nhận được : 17.400.000đ    (vẫn tiếp tục xin…)

chuyện hay của người di tản : "BÉ BIỂN", chuyện có thật đã xảy ra trên biển, trên bờ

Xin cảm ơn những trái tim nhân từ ngoại quốc và những tấm lòng Việt Nam trong suốt chiều dài đau đớn của dân tộc. 


​​Bé Biển

Trên tường, lẫn trong nhiều bức hình rất đẹp được chụp từ một ống kính chuyên nghiệp là tấm hình của chiếc ghe mong manh, nhỏ bé, bồng bềnh trên đại dương. Trên khoang ghe, các thuyền nhân Việt Nam (những boat people đã đánh động lương tâm thế giới vào những năm 70s và 80s) mặt mày ngơ ngác mệt mỏi nhưng mắt sáng lên hy vọng. Đó là món quà tặng cho BS HQM từ một thuyền nhân cùng tàu vượt biển năm xưa.


Mọi người trên ghe gọi em là "công dân của đại dương" vì em sinh ra giữa biển trời mênh mông, không thuộc hải phận của quốc gia nào, vào một đêm trời chuyển mưa, trời không trăng sao, lâu lâu có những tia chớp lóe lên soi sáng đêm đen.

Chiếc ghe rời cửa biển Long Hải lúc nửa đêm về sáng để tránh công an biên phòng, đưa gần bảy mươi thuyền nhân trốn khỏi quê cha đất tổ, đem sinh mạng mình đánh cuộc với định mệnh để tìm tự do và tương lai. Trong số đó có hai vợ chồng trẻ, người vợ ốm yếu mảnh mai, lại mang thai lần đầu, mặc hai ba lớp áo quần nên hinh như không ai biết chị có thai đã bảy tháng, ngoài anh chồng trẻ cũng mảnh khảnh như chị.

Mà nếu có biết cũng chẳng ai còn tâm trí nào để nghĩ đến chuyện người khác khi trong lòng mình cũng "ngổn ngang trăm mối". mà mối lo lớn nhất là có thể bị bắt lại, bị nhục hình, bị tù tội trong khi mình không có tội gì hết, chỉ bỏ xứ ra đi, bỏ ông bà cha mẹ, bỏ tất cả ra đi vì muốn có tự do.

Vừa đặt chân lên sàn ghe, tất cả mọi người đều được đưa xuống lòng ghe để bảo đảm an toàn. Nếu có bất cứ ghe tàu nào đi ngang, nhìn vào người ta chỉ thấy trên khoang ghe có vài ngư phủ đi thả lưới ban đêm để có được một ít cá tôm tươi cho vợ hoặc mẹ mang ra bán ở buổi chợ sáng ngày mai. Nhất là vào ban đêm, ánh đèn bão tù mù, vàng úa giúp những người đang trốn chạy khỏi quê hương che được nét ưu tư lo lắng.

Phía dưới lòng tàu, thông thường chỉ để lưới, xăng dầu, thức ăn của ngư phủ, mấy thùng nước ngọt, và mấy thùng đựng cá tôm lưới được vào những hôm ra khơi nhiều may mắn. Vậy mà bây giờ gần bảy mươi con người ngồi chen chúc, không khí đã thiếu lại càng ngột ngạt hơn khi rất nhiều người bị say sóng ói mửa ngay trên sàn tàu, trên áo quần của mình hay của người ngồi bên cạnh. Không ai nói với ai tiếng nào. Khi ghe chưa ra đến hải phận quốc tế, người ta chưa sợ chết vì đại dương bao la, vì thiếu nước ngọt, thiếu thức ăn, mà đích đến thì còn ở xa mù tít tắp, nhưng nỗi sợ bị công an biên phòng bắt được thì tù tội, nhục hình cũng kinh hoàng như nỗi chết. Nỗi sợ đó lớn quá, bao trùm lên mọi thứ, át đi sự ngột ngạt trong một hầm ghe quá tải, át đi mùi của mọi thứ trong bụng chưa kịp tiêu hóa chạy ngược lên miệng chạy ra ngoài. Khi thức ăn đã ra hết, cả đến mật xanh cũng chạy ra, người ta mệt nhoài, không còn sức để sợ bị bắt lại, không còn sức để cảm nhận được không khí ngột ngạt, nặng mùi chung quanh mình. Ở một góc ghe, người đàn bà trẻ đang mang thai lại tỉnh táo hơn mọi người, hơn cả ông chồng cũng vật vờ say sóng, nôn mửa như hầu hết mọi người trên ghe. Lòng ghe tối đen, không ánh sáng, không cả tiếng động, thời gian tưởng như ngưng lại. Lâu lâu có một chút ánh sáng xanh yếu ớt từ cái đồng hồ đeo tay có dạ quang của ai đó. Đêm dài và sâu hơn với những người đang trốn chạy khỏi quê hương.

Vào đêm thứ nhì của cuộc trốn chạy bằng đường biển, người đàn bà đang mang thai chợt thấy đau nhói ở bụng. Đây là con đầu lòng, chị không có kinh nghiệm về chuyện sinh đẻ. Trong bóng tối đặc quánh trong lòng chiếc ghe mong manh chật như nêm, một tay nắm tay chồng, một tay chị chị nhẩm tính trên những ngón tay xem mình đã có thai bao nhiêu tháng.
*

Họ lấy nhau tháng chín năm ngoái, sau mười lăm tháng quen nhau ở vùng kinh tế mới Đồng Bò, ngoại ô Nha Trang. Chị cố quay lại khúc phim tình yêu lãng mạn của anh chị để quên đi nỗi đau âm ỉ trong bụng. Tình yêu trên vùng đất khô cằn, -ngay cả hoa dại cũng không mọc nổi, không trồng được gì hết ngoài khoai mì, - nhưng rất chân thành, sâu đậm vì đó là tình đầu của cả anh và chị. Họ lấy nhau, không có đám cưới bình thường, chỉ có một lễ ra mắt hai bên họ hàng (cũng chỉ lưa thưa mấy người đàn bà vì đàn ông dạo đó hầu hết đã ở trong lao tù cải tạo vì "tội ngụy quân ngụy quyền") bằng một mâm cơm... trắng (không bị độn khoai sắn như bữa ăn thuờng ngày của người dân kinh tế mới) và vài món ngon như nem, chả được gởi mua từ chợ Đầm ở Nha Trang. Hôn thú cũng chưa làm vì "ủy ban nhân dân xã kinh tế mới" vừa thành hình, chưa có con dấu. Về nơi ở cũ thì bị từ chối vì "hộ khầu đã bị cắt". Nhưng gia đình vẫn cho họ lấy nhau, vì “phải nương nhau mà sống, không phải ở cái vùng kinh tế mới hoang vu này, mà sau này, đi đâu cũng nương tựa vào nhau….”. Mẹ chị đã căn dặn anh chị như vậy ở một lễ cưới dã chiến, không có khăn áo, không có make up, và không có cả họ hàng, quan khách. Mấy miếng chả heo màu trắng - chắc là tỉ lệ thịt và bột ngang nhau -, mấy miếng nem hồng nhạt dành cho hai đứa em chưa đến tuổi đi học, lần đầu tiên trong đời được nếm mùi nem chả. Anh chị nhường nem chả cho các em, ăn cơm với canh rau muống, sau khi đã ăn mấy lát gừng mỏng chấm muối như phong tục ngàn xưa "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”.

Hơn nửa năm sau ngày cưới, một lần về Nha Trang mua hạt giống, anh gặp một người lính hải quân làm dưới quyền ba anh ngày xưa. Thương anh cựu sinh viên Khoa học thư sinh kính trắng phải cày sâu cuốc bẩm nuôi mẹ, nuôi em khi ba ở trong tù cải tạo, người lính hải quân sắp lái một chuyến tàu vượt biển, được chủ ghe cho mang theo cả gia đình, cho anh và chị đi theo.
*

Bụng chị vẫn đau, chị ước gì mình bị say sóng ngủ vùi, hoặc lã đi vì mệt như anh, như tất cả mọi người trong lòng ghe. Nhưng cơn đau vẫn chẳng chịu đi, lúc âm ỉ, lúc nhói lên, chị xanh mặt, vả mồ hôi chịu đựng, tự nhủ trong đầu:

- Không sao, đau một chút rồi sẽ hết. Mình chưa đẻ đâu, đến hôm nay nhiều lắm là 29 tuần, ít nhất cũng cả tháng nữa mới sinh.

Hết tự bảo mình, chị cúi xuống rờ tay lên bụng, thì thầm trong bóng tối:

- Con ơi, nằm yên nha, để đến trại tỵ nạn rồi hãy ra nghe con, an toàn hơn cho cả con và mẹ.

Cơn đau chỉ lắng xuống một vài giây, rồi lại nhói lên quặn đau mỗi lúc một nhiều hơn. Chịu không nổi, chị đành lay vai anh:

- Anh ơi anh, chắc em đang chuyển bụng đẻ.

Đang vật vờ say sóng, nghe vợ sắp sinh, anh tỉnh hẳn, mở mắt nhìn quanh, rồi hỏi chung quanh:

- Có ai biết đở đẻ không? Xin giúp vợ tôi.

Câu hỏi làm mọi người trong cái khoang ghe tối đen, ngột ngạt tỉnh hẳn lên. Giữa lúc mọi người đang vượt đại dương, có một phụ nữ trẻ sắp "vượt cạn". Có ai đó thò đầu lên khỏi hầm ghe, hỏi xin một ánh đèn cho sản phụ.

May là ông chủ ghe cũng thuộc loại người nhân từ, và ghe đã ra đến hải phận quốc tế, nên chị được đưa lên khoang ghe. Anh cũng được đi theo cùng chị. Họ tỉnh hẳn ra khi ra khỏi hầm ghe, được hít thở không khí trong lành của đại dương, cũng là không khí của tự do mặc dù đích đến còn ở xa, xa lắm. Chị thấy khỏe hơn mặc dù cơn đau vẫn không dứt, quặn lên từng cơn.
*
Vinh cũng được rời khỏi hầm ghe, lên sàn tàu cùng với anh chị vì Vinh là bác sĩ duy nhất trên chuyến ghe vượt biển đêm đó. Trời tối đen, Vinh cũng không biết lúc đó là mấy giờ, cái đồng hồ đeo tay đã rớt mất từ lúc nào. Dù đã từng làm việc đở đẻ từ cuối năm thứ tư y khoa trong ca thực tập đầu tiên ở bệnh viện Từ Dũ. Và từ đó đến giờ, dù không chuyên về sản khoa, Vinh cũng đã có dịp trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc trong những trường hợp sinh thường, cũng như sinh khó, phải xoay đầu hài nhi từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, phải mổ để đem con ra khỏi bụng mẹ. Nhưng lần này giữa đại dương, trời tối đen, trên sàn tàu bằng ván lồi lõm còn mùi tanh của tôm cá, chỉ có một ngọn đèn bão tù mù mà người tài công tốt bụng đã cho mượn, không có thuốc khử trùng, không có alcohols, cũng chẳng có bông băng, hay bất kỳ một dụng cụ y khoa nào. Sản phụ lại sinh lần đầu, và Vinh không có một chi tiết nào về hồ sơ bệnh lý của chị. Chưa bao giờ Vinh tưởng tượng mình phải làm công việc tưởng như đơn giản nhưng cả hai sinh mạng đều đặt trong tay Vinh trong một đêm trời tối đen trên sàn một chiếc ghe vượt biển. Mọi thứ đều làm bằng tay, không có cả găng tay, phương tiện còn hạn chế hơn dụng cụ thô sơ của một cô mụ đỡ đẻ ở nhà quê từ nhiều thập niên trước Dưới ánh đèn bão tù mù, phải mất gần một tiếng, từ việc xoay đầu em bé đến việc cắt cuốn rốn, em bé sinh ra đỏ hỏn, sớm hơn kỳ hạn bình thường một tháng nhưng khỏe mạnh. May mắn là sản phụ dù xanh xao, yếu ớt nhưng rất can trường, đã dùng hết sức bình sinh để đẩy được em bé ra ngoài từ cửa tử cung hẹp của một người sinh con lần đầu. Gió của đại dương nhanh chóng làm khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt của Vinh, của anh, và nhất là của chị, sản phụ can đảm nhất nhì thế giới, đã vừa vượt biển, vừa "vượt cạn" lần đầu, không có thuốc tê, không có thuốc mê, không có cả bông băng, nhưng chị không hề rên la, chỉ cắn chặt môi đến rướm máu chịu đựng. Nếu chị không tự đẩy em bé ra được, Vinh cũng không biết mình phải làm gì trong tình trạng không thuốc men, không dụng cụ. Mãi về sau, sau này, sau nhiều năm hành nghề Y khoa ở Mỹ, có dịp chẩn đoán, điều trị cho rất nhiều bịnh nhân thuộc nhiều chủng tộc, nhiều lứa tuổi khác nhau, chị vẫn là bệnh nhân can đảm nhất của Vinh.

Anh đứng bên cạnh là một chỗ dựa tinh thần cho chị, và một phụ tá đắc lực cho Vinh. Người chồng sắp được làm cha, lại vô tình trở thành y tá bất đắc dĩ phụ việc cho Vinh trong một ca đỡ đẻ rất khác thường trên một chuyến tàu vượt biển. Em bé gái mới ra đời được tắm bằng nước biển Đông, được cắt nhau bằng đầu móng tay cái và móng tay trỏ của Vinh. Những đầu móng tay Vinh bắt đầu để dài từ lúc bắt đầu chơi guitar với sự hướng dẫn của một ông thầy dạy môn Nhạc từ những năm đầu Trung học, không ngờ lại được dùng rất có hiệu quả trong trường hợp hy hữu giữa biển khơi. Không có alcohol để tẩy trùng, Vinh đến bên mạn thuyền, múc nước biển lên rửa tay. Muối của đại dương cũng ít nhiều sát trùng những đầu ngón tay của Vinh trước khi Vinh cắt cuốn rún của em bé sơ sinh.

Em được bọc bằng hai lớp áo, lớp trong là cái áo thun của cha, lớp ngoài là cái áo khoác của mẹ. Tiếng khóc đầu tiên của em, của mầm sống mới đem lại nụ cười cho Vinh, cho anh và chị, và hy vọng cho một đời sống mới tự do, tốt đẹp hơn cho mọi người trên ghe. Em ra đời an lành giữa biển Đông, sớm hơn thời hạn bình thường (9 tháng 10 ngày) gần một tháng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Và dĩ nhiên không có cân, không có thước để biết trọng lượng, và chiều cao của em.

Trong niềm vui vừa hoàn thành một ca đở đẻ có một không hai trong đời, Vinh trao em bé cho sản phụ, dùng nước biển để rửa tay. Giữa biển trời mênh mông, không có xà bông, không có alcohol sát trùng, không có cả nước thường để rửa tay. Vinh đến bên thành ghe, một tay bám chặt vào thành ghe, tay kia múc nước biền bằng một cái thùng nylon để rửa tay, và rửa em bé cùng sàn ghe. Sau vài phút vui mừng cạnh vợ con với niềm vui của một người lần đầu làm cha, người chồng trẻ vừa rối rít cảm ơn, vừa giúp Vinh dọn rửa sàn ghe, nơi một con người bé bỏng vừa chào đời trong đêm tối giữa biển trời bao la. Cũng như cha mẹ không được làm hôn thú ở một vùng kinh tế mới, em cũng không được làm khai sinh giữa biển trời, trên một chiếc ghe tỵ nạn. Em được cha mẹ gọi là "bé Biển".

Trời sáng dần, mọi người tỉnh táo hơn, lạc quan hơn vì ánh sáng mặt trời luôn là người bạn tốt của những con tàu đang lênh đênh trên đại dương. Họ còn vui mừng hơn vì có thêm một mầm sống mới vừa chào đời bằng sự can đảm của người mẹ, bằng sự tận tình của một ông bác sĩ trẻ cùng là đồng hành trên chuyến vượt biển tìm tự do của họ.

Những ngày sau đó, dù vẫn phải ăn uống dè chừng vì không biết khi nào mới đến được đất liền, Vinh vẫn được đối xử tử tế hơn, được ông bà chủ ghe mời lên ngồi trên khoan tàu, được hít thở không khí trong lành của đại dương. Vinh cũng được phân phát thức ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, nhưng Vinh cũng chỉ ăn như khẩu phần của mọi người trên ghe, nhường phần đặc biệt đó cho người mẹ mới sinh ốm yếu mảnh mai, cần ăn nhiều để còn có sữa nuôi con sơ sinh.

Những chuyện bình thường đó được rỉ tai bởi những người còn tỉnh táo, khỏe mạnh trên ghe, và như một vết dầu loang, người ta đối xử tốt đẹp với nhau hơn. Một vài người lớn tuổi được những người trẻ hơn nhường phần nước uống hiếm hoi được phát hai lần mỗi ngày. Các em bé được ăn thêm vài muỗng cơm từ những người lớn trên tàu. Chuyện tưởng như đơn giản trên đất liền trong hoàn cảnh bình thường, nhưng là cả một niềm an ủi, một niềm tin khi con người đang trốn chạy khỏi quê hương, đang lênh đênh trên đại dương, không biết lúc nào mới đến bờ, đến bến.
*

Bốn ngày sau, chiếc thuyền mong manh của những thuyền nhân Việt Nam may mắn được một con tàu buôn của Ý trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàu của họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quý, trong đó có một cái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, - làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thương thuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyền mong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sự tận tình của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975. Như luật hàng hải quốc tế vì sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịch Ý, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.

Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghi lại hình ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ vì biết chắc chắn mình sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyền trưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp hình. Bên kia, bác sĩ Vinh được những người trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ý. Vinh cũng đứng trước mũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứng trước một người khổng lồ. Tấm hình đó không một người tỵ nạn nào có dịp trông thấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ý, tất cả thuyền nhân còn lại được đưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.

Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đã giơ cả hai tay lên trời:

- Tôi cảm phục lòng can đảm của sản phụ, tôi cảm phục sự bình tĩnh và tận tình của bác sĩ. Tôi cảm phục lòng quả cảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đã phù hộ các bạn.

Ông ta còn nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụ cười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ý da trắng. tóc đen.

Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớp để có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiến thức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học trình của một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các "equivalent test" của từng giai đoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải học lại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New York trước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó còn trẻ, chưa lập gia đình, dù không phải học lại 5 năm đầu của chương trình Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sách và học thêm một lớp căn bản về "Business Law".

Mỗi tuần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ phòng cấp cứu đến các phòng bệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngày rên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụ cười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm như người sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh con giữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đã được chích thuốc giảm đau mà vẫn rên la.

Xong một năm nội trú ở New York, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago, những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc của Vinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trên chiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bác sĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái bình dương đã rửa tay cho mình và tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng một cách tương đối, đã giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trên sàn ghe giữa biển trời mênh mông.



Rồi Vinh lập gia đình, dọn về San Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để một lúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đó là đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoi gặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhà ngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cả chục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mở phòng khám tư, tự do hơn.

Lần đầu tiên mở phòng khám tư, lại là phòng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêm nhặt,Vinh phải mò mẩm từng bước để xây dựng phòng khám bệnh của mình. Thời đó, đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt còn non trẻ, bệnh nhân của Vinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến phòng mạch của ông bác sĩ trẻ còn giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đến những người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ý, gốc Mễ... Và dĩ nhiên cũng có những bệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hương chăm sóc.

Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiều bạn học đã mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.

Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thay đổi nhiều so với ngày còn ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cả một thời mới lớn ở Việt Nam có những lý tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếng súng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.

Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Võ bị, vừa cởi áo trắng học trò, khoác ngay áo treillis của lính, không có thì giờ mặc áo dân sự giữa một đất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào "trại cải tạo", mặc áo màu sậm, xám xịt như đời “tù... không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉ vài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ở thung lũng điện tử của miền Bắc California.

Tuấn rời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, thì nước mất, không còn nhà, không còn quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắt dậy, bỗng dưng thành một người "vô gia đình, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xa hơn nữa khi Mỹ cấp free pass vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở các nước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ở Mỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân của Vinh cũng mang theo hình ảnh hiền hòa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong "Tuấn chàng trai nước Việt".

Tấn đậu tú tài, vào Không quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nước thì "chim gãy cánh mây ngừng trôi ", Tấn vô tù vì vận nước, rồi trở về làm đủ mọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự do muộn màng nhất trong lớp.

Cả một cái lớp tứ hai ở Ngô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở San Jose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện trò râm ran, tiếng cười vang lên như ngày xưa còn ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.

Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ở quê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùng thung lũng điện tử San Jose đã quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người, chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúc nhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để tìm một ông bác sĩ đồng hương ở quê người. Và thầy tìm ra cậu học trò thông minh, hiền lành năm xưa đang hành nghề "lương y" ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảng cáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợp tìm thấy tên của cậu học trò thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Hòa ngày xưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa, như một người lái đò đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt, vài cái tên Thầy không hề quên.

Gần như chắc chắn đó lả học trò cũ của mình ngày xưa, nhưng muốn dành cho cho Vinh một bất ngờ, thầy Hợp vẫn gọi điện thoại lấy hẹn, đến văn phòng đúng giờ, lảm việc với mấy cô thư ký, điền hồ sơ cho một bệnh nhân mới, rồi kiên nhẫn ngồi đợi như bao nhiêu người khác.

Gần cuối buổi làm việc, Vinh được cô thư ký chuyển vào hồ sơ của bệnh nhân kế tiếp. Nhìn cái folder màu vàng nhạt còn mới toanh của một bệnh nhân mới, Vinh liếc qua tên bệnh nhân, và độ tuổi, cùng giới tính. Tên viết theo lối Mỹ, first name, last name, initial middle name, nên Vinh không hề nghĩ đó là thầy dạy Toán của mình thời trung học.

Vinh rời phỏng làm việc của mình, đẩy cửa vào phòng có bệnh nhân, và thả rơi cái folder xuống nền nhà, không tin vào mắt mình. Cứ như một giấc mơ, thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp của năm đệ tam đang ngồi cạnh bàn khám bệnh ở San Jose, California, chứ không phải cạnh bàn giáo sư của trường Ngô Quyền Biên Hòa như hai mươi năm trước. Thầy vẫn vậy, chỉ già đi theo năm tháng (như người Mỹ vẫn gọi là aging process) chứ không thay đổi. Ánh mắt nghiêm nghị vẫn còn, lấp lánh sau tròng kính trắng. Vinh quên hết nhiệm vụ của mình, quên hết mình đang khám bệnh, quên là mình đã ở xa quê nhà cả một đại dương, mừng rỡ chào Thầy, vẫn cung kính như ngày xưa còn là học trò trung học.

Từ đó, thầy Hợp được học trò chăm sóc sức khỏe rất chu đáo. Không biết vì bản chất Thầy vốn khỏe mạnh, vì Vinh chăm sóc cho Thầy không chỉ bằng kiến thức chuyên môn của một bác sĩ, mà còn bằng tấm lòng của một người học trò cũ, hay vì cả hai lý do, thầy Hợp trông khỏe mạnh và trẻ hơn so với những người cùng độ tuổi.
*

Tưởng đó là lần hạnh ngộ vui nhất trong đời ở phòng khám bệnh, nhưng có một lần khác, ngạc nhiên òa vỡ lớn hơn, đưa Vinh về với vị mặn của gió biển, với lần duy nhất hành nghề y khoa dã chiến giữa trời nước mênh mông.

Đó là một ngày mùa hè, ngày dài đến hơn 14 tiếng, bóng nắng vẫn còn lung linh trên hàng cây cổ thụ ven đường, Vinh đã cởi áo blouse trắng, chuẩn bị về thì cô thư ký gọi vào cho biết có người quen cũ, đến từ Châu Âu kiên nhẫn đợi đến lúc bệnh nhân cuối cùng rời phòng mạch để được gặp bác sĩ Vinh.

Vinh đặt chìa khóa xe vào lại ngăn kéo, nhờ cô thư ký mời khách vào phòng làm việc. Đó không phải là một người khách, mà là một gia đình gồm ba người. Hai vợ chồng đã qua tuổi trung niên, và một cô thiếu nữ chắc vẫn cỏn trong độ tuổi hai mươi. Vinh cố lục lạo trí nhớ của mình để nhớ ra người quen nhưng vẫn không nhận ra được khách là ai?

Vinh mời khách ngồi, nhã nhặn:

- Xin lỗi, tôi có thể giúp gì được cho quý vị?

Người đàn ông mở lời, giọng Saigon rất thân quen:

- Thưa bác sĩ, chúng tôi từ Ý đưa bé Biển đến thăm bác sĩ, và để cảm ơn bác sĩ đã lo cho mẹ con cháu chu đáo trên biển đông năm xưa.

Vinh tròn mắt ngạc nhiên:

- Ô, anh chị ngày xưa trên con thuyền vượt biển tháng 6 năm 1979 từ Long Hải, Vũng Tàu.

Ngưởi đàn bà cười tươi tiếp lời bằng giọng Huế nhẹ nhàng:

- Thưa đúng rồi, bác sĩ còn nhớ chúng tôi?

- Không những chỉ nhớ mà còn phục sự can đảm chịu đựng của chị năm xưa khi sanh con đầu lòng trên sàn tàu vượt biển không có ánh sáng, không có thuốc men, không có cả dụng cụ.

Đó là lần hội ngộ với một bệnh nhân cũ bất ngờ, cảm động nhất của Vinh.
*

Từ chiếc tàu buôn của Ý năm xưa, 68 thuyền nhân, cộng với "công dân của đại dương", bé Biển, được đưa về trại tỵ nạn Pulau Bidong của Malaysia. Từ đó, họ đi định cư ở nhiều nước khác nhau. Vinh định cư ở Mỹ. Gia đình nhỏ ba người của bé Biển đi Ý vì cảm kích lòng tử tế của thủy thủy đoàn trên thương thuyền của Ý, và vì bé Biển mang quốc tịch Ý.

Từ đó, bận rộn với cuộc sống mới với một khởi đầu mới ở quê người, Vinh không còn dịp liên lạc với bất cứ một thuyền nhân nào trên chuyến tàu vượt biển năm xưa.

Gia đình bé Biển đến Ý, ổn định cuộc sống. Họ làm hôn thú cho mình và khai sinh cho con ở Ý. Trên khai sinh, tên của bé Biển là Nguyễn Thị Đại Dương. Và như một kỷ niệm suốt đời mang theo, sợi dây chuyền với chiếc mỏ neo bằng vàng luôn nằm trên cổ em từ lúc chỉ mới vài ngày tuổi. Vài năm sau, họ có thêm một cậu con trai sinh ở Rome, vẫn có cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Bình, tên Ý là Grato (nghĩa là cảm ơn). Đó là cách để họ nhớ đến Thái bình dương với ân tình từ rất nhiều người cả Việt Nam lẫn Ý.

Cho đến một ngày nọ, tin tức địa phương từ một tờ báo về chuyện một ngưởi thuyền trưởng tài ba, nhân từ về hưu sau hơn 30 năm lênh đênh trên các đại dương, giúp họ tìm ra vị thuyền trưởng đã cứu vớt con tàu nhỏ bé năm xưa của những người Việt Nam tỵ nạn. Họ tìm đến gặp ông, và lần này đã có thể nghe ông kể lại câu chuyện và tâm trạng của ông năm xưa bằng tiếng Ý. Sau đó, họ được ông tặng tấm hình chụp con tàu tỵ nạn dạo nào, trên đó có họ gầy yếu xanh xao, có đứa con đầu lòng, bé Biển hãy còn đỏ hỏn, không có sữa uống, được nuôi bằng nước cháo.

Tấm hình được họ mang đến tiệm, nhờ chuyển qua dạng một cái plaque treo tường. Họ làm cho mình một, và một plaque thứ hai để dành tặng cho ông bác sĩ trẻ năm xưa giúp bé Biển chào đời an toàn trên sàn tàu vượt biên.

Bước vào thế kỷ 21, khoa học phát triển, google search giúp họ tìm ra bác sĩ Vinh. Vì ngày xưa trước lúc rời trại tỵ nạn, họ có hỏi thăm tên họ của Vinh. Nhờ một người bạn ở San Jose giúp đỡ thêm, họ đưa bé Biển, đã là một Bác sĩ sản khoa ở Ý, qua Mỹ thăm Vinh.

Cô bác sĩ trẻ người Ý gốc Việt nói với ông bác sĩ đã qua tuổi trung niên người Mỹ gốc Việt, bằng tiếng Việt rõ ràng, khúc chiết với giọng Huế pha Saigon:

- Thưa bác, con cảm ơn bác đã giúp cho con chào đời an toàn trên biển. Nghe ba mẹ con kể lại, và nhớ ơn bác năm xưa, con đã học sản khoa. Có lẽ suốt đời con không có cơ duyên đặc biệt như bác đã làm ngày con ra đời. Nhưng con nhớ hoài chuyện đó và vẫn kể cho bệnh nhân của con nghe khi họ sắp chuyển dạ để giúp họ thêm can đảm. Con cảm ơn bác rất nhiều.
*
Thay cho lời kết:

Năm 2011, trong một lần đến họp và tập hát chuẩn bị cho hội ngộ cựu học sinh Ngô Quyền toàn thế giới lần thứ 2, ở phòng mạch của bác sĩ HQM, một đàn anh Ngô Quyền, chúng tôi thấy một plaque hình thuyền vượt biển khá đẹp, và được nghe kể lại một chuyện cảm động trên tàu thời đó.

Tấm plaque treo tường với chiếc ghe nhỏ bé chơ vơ giữa biển xanh đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, một cựu thuyền nhân. Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mang theo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quên trong lịch sử thuyền nhân. Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩa như những nhân vật trong chuyện, và những hạnh ngộ bất ngờ luôn luôn làm cho đời sống đẹp hơn.
(Viết từ một bức hình ở phòng mạch của BS Huỳnh Quang Minh. Thung lũng hoa vàng- đầu mùa xuân 2015)


Nguyễn Trần Diệu Hương

bản tin SHDC số 241

SINH HOẠT DÂN CHÚA Gx TAM KỲ
Số 241      &      ' 0510.3834.492
có thể xem nơi địa chỉ mạng : gxtamky.blogspot.com
Chúa Nhật 5 Phục Sinh, 03-5-2015
I- LỜI CHÚA NGÀY CHÚA NHẬT :
Bài đọc 1 :   sách  Công Vụ Tông đồ                  Cv 9,26-31
Ông Banaba tường thuật chuyện ông Saulô được thấy Chúa hiện ra trên đường.
Bài đọc 2 : thư thứ 1 của thánh Gioan              1 Ga 3,18-24
Dây là điều răn của Chúa : chúng ta phải tin và phải yêu thương nhau.
Tin Mừng theo thánh Gioan                               Ga 15,1-8
Ai ở lại trong Thấy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.
II- Ý Lễ : bà Phi gk 6 : lễ cho Lh Anrê và Gioakim * chị Huyền gk 7 : lễ cha mẹ Giacôbê-Luxia * ôb Tuyển TB : lễ giỗ Lh Maria và Đaminh * chị Yến Tcai : lễ giỗ em, Maria * chị Hường (Hò) gk 7 : lễ tạ ơn, cầu bình an * chị Quy gk 9 : lễ giỗ cha mẹ Phaolô-Maria * gđ Thanh-Sen gk 3 : lễ tạ ơn * a. Chung (lương) và con, gk 5 : lễ cho nội Gioan B.-Catarina và vợ Catarina Vi * cô Lài gk 9 : tạ ơn và cầu cho ÔBTT * ôb Cảnh-Đoàn gk 1 : lễ giỗ ÔBTT và Lh Catarina-Maria * ôb Thảo TB : lễ cho Lh Đaminh-Maria * ô. Hồng gk 8 : lễ Bổn Mạng Philipphê * gđ Khiêm-Liên TB : lễ tạ ơn * c. B.Tuyết gk 6 : tạ ơn, cầu bình an
III- VIỆC PHỤC VỤ NHÀ CHÚA,
từ chiều 09-5 đến 15-5-2015 :  cộng đoàn giáo khóm 8
THÔNG TIN QUAN TRỌNG
1. Triều thiên Tử Đạo tại Việt Nam : trong tuần qua, Hội Thánh Việt Nam có kỷ niệm của 8 vị thánh Tử Đạo, gồm 6 vị người Việt và 2 vị Thừa Sai ngoại quốc, nhưng vì không đủ điều kiện thông báo, nên lúc này chỉ xin nhắc qua tên tuổi các ngài, để chúng ta có thể nhận biết ít nhiều :
- ngày 27-4 : thánh Lôrênxô NGUYỄN VĂN HƯỞNG (1802-1856), linh mục tử đạo.
- Ngày 28-4 : Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN (1771 – 1840) Linh mục tử đạo + Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU (1777 – 1840) Thầy giảng tử đạo + Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH (1796 – 1840) Thầy giảng tử đạo.
- Ngày 29-4 : Thánh Giuse TUÂN (HOAN)  (1811 – 1861) Linh
mục dòng Đaminh tử đạo.
- Ngày 01-5 : Thánh Augustinô SCHOEFFLER ĐÔNG (1822 – 1851) Linh mục thừa sai Paris tử đạo và Thánh Gioan Louis  BONNARD Hương  (1824 – 1852) Linh mục Thừa sai Paris tử đạo
- Ngày 2-5 : Thánh Giuse NGUYỄN VĂN LỰU  (1790 – 1854) Trùm họ tử đạo
+ và Tuần lễ này, ngày 9-5, Thánh Giuse HIỂN Linh mục dòng Đaminh tử đạo. Đây là vị tử đạo mà sử liệu không biết được về dòng họ, chỉ gọi vắn tắt là Lm Giuse Hiển. Ngài sinh năm 1769, tại làng Quần Anh Hạ, tỉnh Nam Định. Vào dòng Đaminh, ngài được gửi đi du học ở Manila, Philippine, và chịu chức Lm ngày 12-10-1812, rồi đi nhiều xứ lo việc mục vụ. Năm 1838, cha Hiển trở về quê mẹ làm việc và bị bắt ngày 20-12-1839. Tổng đốc Trịnh quang Khanh đã tra khảo dữ dội về tình hình Giáo Phận lúc đó, nhưng cha thánh Hiển đã cương quyết chối từ, không để ai bị liên lụy. Ngày 09-5-1840, thánh Giuse Hiển nhận triều thiên tử đạo bằng lưỡi gươm chém đầu, thọ 71 tuổi, được chôn cất ngay tại quê nhà. Đức Lêô 13 tôn phong cha bậc Chân Phước ngày 27-5-1900, và Đức Gioan Phaolô 2 tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh ngày 19-6-1988.
2- Nhà Thờ phải mua đàn orgue mới : cây đàn cũ của giáo xứ đã “thọ” được 12 năm ruỡi, có thể như vậy là đã tốt lắm, đối với hàng điện tử. Đến nay, đàn orgue đã bị hư hỏng bất ngờ, chưa biết có thể sửa chữa ở đâu, nhưng với loại hàng công nghệ cao này, việc sửa chữa là khó khăn và tốn kém. Vì yêu cầu phục vụ tiếng hát của Nhà Thờ, cộng đoàn chúng ta sẽ phải tìm mua cây đàn khác. Giá cả thì có rất nhiều, với nguyên tắc “tiền nào của đó”. Hàng đắt tiền thì công nghệ cao hơn, sang trọng hơn. Hàng rẻ tiền thì chất lượng sẽ kém hơn. Với khả năng của chúng ta, không khá giả gì so với nhiều giáo xứ khác, chắc chắn chúng ta sẽ chỉ tìm mua một cây đàn vừa tầm, vừa khả năng, có thể trên dưới 20 triệu. Tôi xin kêu gọi anh chị em trong cộng đoàn cùng góp vào, kẻ ít người nhiều tuỳ lòng hảo tâm và với ý thức chia sẻ, để sắm sửa cho việc chung, và gửi qua Quý Chức hoặc trực tiếp với tôi. Trước mắt, là cha xứ, tôi xin tự nguyện góp 5 triệu và mời gọi anh chị em tiếp tay : chị Hường (Hò) gk 7 : 50k+ ac Công-Phấn gk 9 : 400k. Xin cám ơn.
3- Việc Bồi dưỡng thiếu nhi Rước Lễ Lần đầu bắt đầu từ thứ ba 05-5 lúc 18g30, kinh lễ xong, các em vào lớp với Sơ phụ trách. Phụ hynh nên cho các cháu ăn tối trước. Học vào tối thứ Ba-Năm-Bảy.

4- Góp Quỹ Bác Ái : Ban Mục Vụ : 230k

Bản tin SHDC số 240

SINH HOẠT DÂN CHÚA Gx TAM KỲ
Số 240      &      ' 0510.3834.492
có thể xem nơi địa chỉ mạng : gxtamky.blogspot.com
Chúa Nhật 4 Phục Sinh, 26-4-2015
Lễ CHÚA CHIÊN LÀNH
I- LỜI CHÚA NGÀY CHÚA NHẬT :
Bài đọc 1 :   sách  Công Vụ Tông đồ                  Cv 4,8-12
Không có danh nào khác, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ ngoài Danh Chúa Giêsu.
Bài đọc 2 : thư thứ 1 của thánh Gioan              1 Ga 3,1-2
Thiên Chúa như thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
Tin Mừng theo thánh Gioan                               Ga 10,11-18
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
II- Ý Lễ : a. Hùng (lương) : lễ giáp tháng cho ba Phêrô Châu * bà Phấn gk 5 : lễ giỗ ba Giuse * bà Hồng gk 3 : lễ cho Lh Phêrô * bà Thiết gk 7 : lễ cho cha Bênêđitô * gđ Nam-Thúy gk 5 : lễ cho Lh Maria và xin ơn * gđ Tuấn-Huệ gk 8 : lễ giỗ Lh Anê và Maria, BNLH * ô Tiến gk 8 : lễ 100 ngày vợ Maria Cam * a. Khiêm TB : lễ cho Đaminh-Maria và tạ ơn * a. Cán Txuân : lễ mãn khó vợ Maria Vân * mẹ Phượng-Khanh gk 3 : tạ ơn và cầu cho CLH * chị Hoa-Lợi gk 9 : tạ ơn và cầu cho cha Benênêđitô * gđ Tú Đoàn TĐức : cầu bình an * 1 người : lễ cho 2 Lh Giuse và ÔBTT * gđ Vương-Nhiệm Tcai : tạ ơn, cầu bình an * cô Ân gk 1 : lễ giỗ ÔB nội Giuse Catarina * gđ Hóa-Triều Sg : cầu bình an * ôb Tuyển TB : lễ cho Lh Maria * a. Phương gk 8 : lễ 100 ngày cho mẹ Maria Trí* gđ Vinh-Thủy Txuân : lễ cho ba mẹ (lương) và thai nhi * chị Huyền gk 7 : lễ cha mẹ Giacôbê-Luxia * gđ Tâm-Hà gk 7 : lễ cho ÔBCM * chị Dung-Anh gk 8 : bình an * gđ Minh-Tín gk 5 : tạ ơn, cầu bình an * gđ Trung-Trinh gk 5 : tạ ơn, cầu bình an * Sơ Đào, Huế : lễ 10 năm cho mẹ, Anna * bà Thiết gk 7 : lễ cho Lh Gioakim, Catarina và Giuse  * gđ Đức-Nhượng gk 1 : tạ ơn * cô Nguyệt gk 1 : lễ cho anh Giuse * chị Loan : lễ cho CLH * bà Mai LTrà : giỗ chồng Têphanô, con Têrêxa *
III- VIỆC PHỤC VỤ NHÀ CHÚA,
từ chiều 02-5 đến 08-5-2015 :  cộng đoàn giáo khóm 7
THÔNG TIN QUAN TRỌNG
1. Tháng Hoa 2015 với Đức Mẹ đã đến :  chiều tối thứ Năm 30-4, lúc 19g00, cộng đoàn giáo xứ khai mạc Tháng Hoa tại Hang Đá Đức Mẹ ở sân Nhà Thờ. Xin giúp tập trung Tượng Đức Mẹ giáo khóm về lại Nhà Thờ trước ngày lễ,  để  cùng Mẹ, chúng ta lên
đường thăm viếng nhau trong tháng Hoa này, như mọi năm.
Đến tối thứ Bảy đầu tháng Hoa, lúc 19g00 ngày 02-5, cộng đoàn dâng lễ tại Hoa Viên Đức Mẹ Lữ Hành, đồng thời Giáo Khóm 1 đại diện giáo xứ tiến hoa, múa hát dâng Mẹ.
2- Xin mời Ban Đại Diện họp tháng 5, sớm một chút, tối ngày 30-4, sau khi khai mạc Tháng Hoa.
3- Cuối tháng Hoa năm nay sẽ là ngày thứ Bảy 30-5 tại TTTM Trà Kiệu. Sau đó, Chúa Nhật 31-5, giáo xứ Tam Kỳ mừng trọng thể lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, Bổn Mạng giáo xứ.
Dự kiến lễ Bổn Mạng giáo xứ sẽ là chiều tối Chúa Nhật 31-5, trên sân Nhà Thờ, và sẽ tập trung, chỉ 1 Thánh Lễ.
Các học sinh giáo lý sẽ tham gia sinh hoạt ngoài trời cả ngày Chúa Nhật này, để kết thúc năm học. Chơi xong, ở lại dự Thánh Lễ Bổn Mạng.
4- Chuẩn bị cho thiếu nhi lãnh nhận Bí Tích :  năm học Giáo Lý sẽ kết thúc đồng thời với các trường văn hóa. Tuy nhiên, với Lễ Thánh Thể, kính Mình Máu Thánh Chúa vào Chúa Nhật 07-6, mới chính thức nghỉ học, bằng việc các em Xưng Tội và Rước Lễ Lần Đầu.
Vậy xin thông báo cùng cha mẹ các em lớp 5 Đavít, và một số em lớp lớn hơn, thuộc diện đặc biệt, chưa Rửa Tội, hoặc chưa được RLLĐ : các em sẽ được tập trung để ôn tập cách riêng về Giáo Lý Bí Tích, bắt đầu từ tháng 5. Khóa học ngoại lệ này sẽ do Qúi Sơ La Vang giúp trực tiếp, vào các buổi ấn định sau, do chính các phụ huynh đề nghị. Vậy xin mời cha mẹ các em đến Nhà Thờ họp tối nay, Chúa Nhật 26-4, lúc 19g00. Dịp thuận lợi đến, cha mẹ không thể để chậm trễ, thiệt thòi cho con cái.
5- Góp cho Đức Mẹ Lữ Hành : anh chị Nghĩa-Nhung gk 6 : 2.000.+ a. Dũng (Dung) gk 4 : 500.  + Góp Quỹ Bác Ái : anh chị Tâm-Hà gk 7 : 100.  Xin cám ơn

Xin hồi đáp lại, xác nhận bằng cách đánh dấu tại chữ đó
     1- Việc đọc chung Tin Mừng có giúp bạn tiếp cận được với lời Chúa ? Có Lời nào đọng lại trong tâm trí bạn không ?   Có - Không
     2- Bạn biết mở sách Tân Ước, với các số câu chữ ?  Có - Không
     3- Đọc chung làm người không có sách bị khó nghe,
không hiểu lời Chúa ?                                                 Có -Không
     4- Nhà Thờ thiếu sách cho bạn ?                            Có - Không
     5- Ngoài giờ lễ, có khi nào bạn mở đọc Kinh Thánh?   Có - Không
     6- Cuối cùng, theo bạn, Nhà Thờ có nên cho đọc chung Tin Mừng trong Thánh Lễ ?     Có - Không

Cám ơn bạn, và xin gửi lại cho Nhà Thờ

Sorry - lời cáo lỗi vì có trở ngại

Quý Ông Bà Anh Chị em tham kiến Blogger Tam Kỳ thân mến,

Một sự kiện xảy ra ngoài ý muốn của admin blogger Tam Kỳ. Đó là không mở được trang mạng này để gửi các bản tin hằng tuần, hoặc những thông tin cần chia sẻ.Lý do tại sao thì admin này không hiểu nổi. Hiện tại, đường truyền là của VNPT. Có thể do sự kiểm soát thông tin của NN, nên bị hạn chế. Bây giờ vào blog qua ngả FPT, thì lại thấy được, mở là vào.Như vậy, rất có thể VNPT ngăn chặn trang blog này.Nhưng thôi, không sợ, nếu NN cho thì mình vào, mà ngăn cấm thì thôi, vì dù sao đây cũng là quyền tự do căn bản của con người. Nếu bị ngăn chặn, điều đó có nghĩa là người ta sợ... Nếu sợ, thì phải có lý do gì mới sợ. Người ngay chính thì chẳng có gì phải sợ, phải không quí bạn.Trong điều kiện riêng của qúy bạn, rất có thể các bạn vào blog dễ hơn ở nơi đây, với địa chỉ này. Vì thế xin quý ông bà và anh chị em thông cảm, sorry cho admin trong thời gian qua. Lỗi là tại đâu đâu, như hổng phải tại admin mô nghen.Admin Blogger Gx Tam Ky